Ca sĩ Hà Thanh
Trích bài phỏng vấn ca sĩ Mai Hương của Nghiêm Xuân Cường
“Khoảng năm 1963, Đài Phát Thanh Sài Gòn đón nhận một con chim họa mi xứ Thần Kinh. Đó là chị Hà Thanh, giọng ca số một ở Huế, một giọng ca cao vút và trong sáng. Trước khi chị Hà Thanh vào Nam, tôi đã được nghe nói đến tên chị rồi. Thế rồi các ca sĩ nhi đồng nhỏ tuổi hơn tôi như Quỳnh Giao, Hoàng Oanh cũng bắt đầu góp mặt trong các chương trình tân nhạc của các đài phát thanh. Riêng Hoàng Oanh có biệt tài về ngâm thơ ngoài lãnh vực ca hát nên cô góp giọng rất nhiều trong các chương trình thơ nhạc như Tao Đàn, Thi Nhạc Giao Duyên của cố thi sĩ Đinh Hùng. Đối với chúng tôi, những năm họat động ở trên các đài phát thanh là những năm đẹp nhất, đáng nhớ nhất. Tất cả các ca nhạc sĩ già, trẻ, lớn bé đều xem nhau như anh chị em trong một đại gia đình, yêu thương, kính trọng nhau, không có sự chèn ép hoặc ganh tị trong đài. Nói về các chương trình tân nhạc thì gồm toàn những bài bản giá trị, được các nhạc sĩ trưởng ban soạn cho ban nhạc và ca sĩ rất công phu. Hoà âm được viết cho từng nhạc cụ và từng bè của mỗi ca sĩ riêng biệt. Mỗi người nhìn vào phần của mình mà ráp với nhau. Ở đài chúng tôi thường hát theo hòa âm của các nhạc sĩ Vũ Thành, Nghiêm Phú Phi, Văn Phụng, Nhật Bằng, Y Vân…
Nhưng từ năm 1968 trở đi không khí đài phát thanh mất vui nhiều lắm. Sau biến cố Tết Mậu Thân, Sài Gòn không còn vẻ thanh bình của những năm trước đó. Chúng tôi phải hát thêm loại nhạc “chiến dịch”, nghĩa là khi được tin quân đội ta đánh thắng những trận nào, tin tức đưa về, là các anh nhạc sĩ Lê Dinh, Nhật Bằng, Minh Nhật, Trầm Tử Thiêng, phải sáng tác ngay một bài hát mới và đưa vào phòng vi âm cho chúng tôi thâu “ké” để kịp phát thanh ngay mừng chiến thắng vì lúc ấy chúng tôi đang thâu cho các chương trình tân nhạc. Rồi đến “Mùa Hè Đỏ Lửa 1972”, khắp miền dồn dập những trận đánh lớn, nhỏ. Các bài hát chiến dịch tiếp tục được sáng tác và chúng tôi vẫn thâu thanh. Có nhiều hôm vừa ăn cơm tối xong, được điện thoại trên đài gọi đi thu thanh gấp. Tôi và Quỳnh Giao vừa lên đến nơi thì anh Minh Nhật dúi vào tay một bài hát mới toanh, bảo thu ngay bây giờ để phát thanh liền. Thế là chúng tôi mở to con mắt ra để mà nhìn, mà đọc, mà hát. Không có thì giờ để tập vì phải về nhà trước giờ giới nghiêm. Tôi chưa về đến nhà thì bài hát mình vừa thâu đã được phát ra rồi .Tôi vừa bước chân vào nhà, me tôi đã nói: “Me vừa nghe con hát trên đài. ” Ba Me tôi ở cách chúng tôi có vài căn nên hay qua chơi với các cháu.
Từ năm 1972 đến 1975 một số người bỏ đài, không còn hứng khởi hát hò như xưa. Trong số đó có chị Kim Tước ra Nha Trang, chị Hà Thanh ra Huế. Các anh Thanh Vũ, Trần Ngọc (nhạc sĩ Tuấn Khanh) chú Anh Ngọc không hát nữa. Cô Thái Thanh cũng vậy. Trong đài bấy giờ chỉ còn tôi, Hoàng Oanh, cô Mộc Lan, chị Thể Tần và Phượng Bằng, Phương Nga. Quỳnh Giao thì không đi hát đều đặn như trước mà bận dậy đàn nhiều hơn. Ngày 22 tháng 4-1975 chúng tôi rời bỏ quê hương đi lánh nạn xứ người. Gia đình tôi gặp gia đình Quỳnh Giao trong trại tỵ nạn ở Guam. Chúng tôi vui mừng, cảm động đuợc gặp nhau mà nước mắt ròng ròng. Cũng tại nơi này chúng tôi gặp gia đình anh chị LưuTrung Khảo là hàng xóm sát vách của mình ở đường Bùi Thị Xuân. Lại khóc.”