Tags
ca si anh ngoc, Ca si Duy Trac, Ca si Ha Thanh, Ca si Kim Tuoc, ca si Thai Thanh, Nhac si Tham Oanh
Nhạc sĩ Thẩm Oánh sinh năm 1916 tại Hà Nội. Thời thanh niên ông là thầy giáo dạy nhạc tại các trường trung học Chu văn An và Trưng Vương ở Hà Nội. Sáng tác đầu tay của ông là Khúc Yêu Đương năm 1938. Ông có chủ trương xây dựng một nền tân nhạc mang nhiều dân tộc tính: “”Âm Nhạc Cải Cách phải theo ý nhạc Việt Nam và phải có cảm tưởng thuần túy Á động.” Nhạc sĩ Phạm Duy nhận định: “Nhạc điệu của bài Khúc Yêu Ðương này có phảng phất một nét nhạc ngũ cung mà tôi cho là gần gũi nhất, tự nhiên nhất đối với lỗ tai người Việt. Ðó là ngũ cung Do Ré Fa Sol La.”
Đôi nhạc sĩ Tô Anh Đào và Thẩm Oánh
Nhạc sĩ Thẩm Oánh bắt đầu sự nghiệp biểu diễn và sáng tác qua những buổi hội họp để biểu diễn và thảo luận về âm nhạc tại các tư gia thượng lưu ở Hà Nội, gọi là salon (nghĩa đen là phòng khách). Tại một trong những salon đó, ông đã gặp cô Tô Anh Đào ngay tại biệt thự của gia đình cô, số 164 Phố Huế, Hà Nội. Thoạt đầu cô Tô Anh Đào và nhóm bạn salon của cô chỉ đàn hát với nhau mỗi khi gặp mặt tại nhà hay vào những dịp picnic ở chùa Láng và chùa Trầm, Hà Nội. Dần dần, nhóm nhạc mang tên Myosotis được hình thành với mục đích biểu diễn trước công chúng. Trong số các thành viên của Myosotis có cô Tô Anh Đào (piano), nhạc sĩ Thẩm Oánh (mandolin và thanh nhạc), nhạc sĩ Dương Thiệu Tước (guitar và đàn Hạ Uy Di), nhạc sĩ Nguyễn Thiện Tơ (guitar, banjo). Ban nhạc biểu diễn thường xuyên từ 1937 đến 1940 tại các nhà hát Majestic, Olympia, Palace ở Hà Nội. Đôi nhạc sĩ Thẩm Oánh và Tô Anh Đào kết hôn năm 1948.
Giai đoạn 1938- 1954 được xem là thời kỳ sung mãn nhất của Thẩm Oánh, khi ông cho ra đời khoảng một nghìn ca khúc. Ông là người tiên phong cho hai thể loại nhạc kịch và ca khúc Phật giáo. Vở nhạc kịch Quán Giang Hồ của ông được công diễn năm 1945 tại Nhà hát lớn Hà Nội và 8 ca khúc Phật Giáo, trong đó có bài A Di Đà Phật, được cất lên lần đầu tại chùa Quán Sứ (Hà Nội) năm 1942. Những sáng tác tiểu biểu của ông là Trưng Nữ Vương, Tôi bán đường tơ, Nhớ Nhung, Xuân về, Trầm hương cũ, Việt Nam phục quốc….
Ngoài sáng tác và biểu diễn, ông còn là người sáng lập Đài Phát Thanh Hà Nội (tiếng Việt) năm 1945 và năm 1955, ông giữ chức Giám đốc trường Ca-vũ-nhạc phổ thông Sài Gòn cho đến khi trường đóng cửa năm 1958. Ông cũng là giáo sư trường Quốc gia âm nhạc và kịch nghệ Sài Gòn. Thẩm Oánh là một trong 11 người đại diện cho nước Việt Nam Cộng Hòa tham gia The First Regional Music Conference of Southeast Asia (Hội thảo Âm nhạc Khu vực của Đông Nam Á) tổ chức từ 29 đến 31 tháng 8 1955 tại Manila, Phi Luật Tân. Hội thảo này được sự bảo trợ của UNESCO và The International Music Council (Hội Nghị Âm Nhạc Quốc Tế) của UNESCO. Được giới thiệu là một “‘professor of musicology’ at Saigon University” (giáo sư âm nhạc học của Đại học Sài Gòn). Thẩm Oánh phát biểu về “Musical Development in Vietnam” (tức Sức tiến triển của nền âm nhạc Việt Nam). Nữ minh tinh điện ảnh Thẩm Thúy Hằng, do lòng ái mộ ông, đã mượn chữ Thẩm để làm đầu cho nghệ danh bà.
Sau 1975, ông dạy Pháp văn cho một số trường phổ thông và định cư ở Hoa Kỳ năm 1991. Ông đã mất tại đây năm 1996.
Nhớ Nhung – Hà Thanh
Thiếu phụ Nam Xương- Thái Thanh
Vương tơ- Anh Ngọc
Tòa miếu cổ- Kim Tước
Chiều tưởng nhớ- Duy Trác
A Di Đà Phật- Ban Thăng Long