Tác giả: Nguyễn Thanh Bình
Nói đến Nguyễn Văn Đông, dường như ai cũng sẽ nói đến hai từ “nhạc lính”. Nhưng nhạc lính của Nguyễn Văn Đông có gì khác với nhạc lính của Trần Thiện Thanh, hay nhạc lính của miền bắc? Tôi nghĩ đến một khác biệt cơ bản: Nguyễn Văn Đông là nhạc sĩ bị ép cầm súng, chứ không phải là một chiến binh viết nhạc.
Nhạc lính của Nguyễn Văn Đông không thi vị hóa đời lính chiến như Trần Thiện Thanh, người viết cho mỗi binh chủng một bài khác nhau, bài nào cũng đẹp như thơ. Nhạc lính của Nguyễn Văn Đông cũng không khiến người ta hừng hực lên đường, kéo pháo lên đồi cao để nã vào đầu quân thù. Nhạc lính của ông, cũng không mang nỗi niềm bi lụy của Nhật Ngân (Trịnh Lâm Ngân).
Nhạc lính của Nguyễn Văn Đông, cũng như thơ Hữu Loan và Quang Dũng, là những phát tiết lãng mạn từ một con người lãng mạn. Họ là những nghệ sĩ phải mặc áo lính. Họ là những người mà Diệp Minh Tuyền đã gọi là “đời thích hoa hồng” nhưng “kẻ thù buộc ta ôm tay súng”. Họ, là những người dù sinh tử lâm đầu nhưng vẫn hướng về hậu phương.
Quang Dũng giữa những “Rải rác biên cương mồ viễn xứ. Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” mà vẫn “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Hữu Loan, giữa sa trường bom rơi không sợ chết, chỉ lo:
“Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê…”
Còn Nguyễn Văn Đông thì “Người đi khu chiến thương người hậu phương. Thương màu áo gởi ra sa trường”. Nghe nhạc của Nguyễn Văn Đông, có cảm giác như đang đọc một bài thơ, vừa mang hồn tính lãng mạn phương tây mà vẫn ánh nét cổ kính của Đường Thi, vì ông dùng rất nhiều từ Hán Việt. Như hai câu cuối trong “Chiều mưa biên giới”:
“Lòng trần còn tơ vương khanh tướng
Thì đường trần mưa bay gió cuốn
Còn nhiều anh ơi”.
Vì hai câu này, nhạc lính của Nguyễn Văn Đông bị Bộ Thông tin của chính quyền miền nam cấm hát, vì họ nói nó quá ủy mị. Người sau này đeo tới lon đại tá quân lực Việt Nam Cộng Hòa mà nhạc bị chính quyền Cộng Hòa cấm hát, khỏi nói cũng biết ông lãng mạn đến mức độ nào.
Bìa tờ nhạc Dạ Sầu- Phượng Linh cũng là một bút hiệu của Nguyễn văn Đông
Những ai yêu Trịnh Công Sơn và Khánh Ly không thể không biết Sơn Ca 7, tuyển tập Khánh Ly hát tình ca Trịnh hay nhất, nổi tiếng nhất, thu vào băng cassette. Hãng Sơn Ca, do Nguyễn Văn Đông và người bạn Huỳnh Văn Tứ lập ở Sài Gòn. Người đầu lo nghệ thuật, người sau phụ trách tài chính. Sơn Ca đi đầu trong việc làm album riêng cho từng ca sĩ, trước khi vô album đều có giọng lảnh lót: “Sơn Ca. Sơn Ca. Sơn Ca”. Ba con chim Sơn Ca lừng danh nhất của hãng trong thời gian này là Sơn Ca 7 với Khánh Ly, Sơn Ca 9 với Lệ Thu và Sơn Ca 10 với Thái Thanh hát cùng Ban hợp ca Thăng Long.
Với nghệ thuật cải lương, Nguyễn Văn Đông xuất bản hàng trăm băng tân cổ giao duyên, đồng thời phụ trách phần “đạo diễn âm nhạc” cho hơn 50 tuồng cải lương, trong đó có những tuồng bất tử như “Nửa đời hương phấn”, “Mưa rừng”, “Sân khấu về khuya” hay “Đoạn tuyệt”.
Nguyễn Văn Đông yêu nghệ thuật, và yêu mảnh đất hình chữ S này. Thế nên dù có cơ hội ra nước ngoài theo diện H.O, ông đã từ chối. Một phần vì bệnh tật sau 10 năm cải tạo, một phần vì ông không muốn rời xa nó. Hơn 40 năm sau 1975, ông sống một cuộc đời bị quên lãng hoàn toàn. Không viết nhạc, không trả lời truyền thông, sinh kế do chiếc xe bánh mì của vợ trên đường Nguyễn Trọng Tuyển chu cấp. Người Phú Nhận, Sài Gòn ăn bánh mì ở đó chán chê, đâu biết nó là nơi trú ngụ của một trong những nhân vật tài hoa nhất nước.
Bìa bản nhạc Dạ Sầu- Phượng Linh cũng là một bút hiệu của Nguyễn văn Đông
Trở lại với nhạc của Nguyễn Văn Đông. Mặc dù là một binh sĩ ưu tú của Việt Nam Cộng Hòa, 22 tuổi là tiểu đoàn trưởng trẻ nhất Quân đội Quốc gia. Chưa đến 30 đã được đi du học khóa Chỉ huy tham mưu ở Hawaii, năm 1972 đã mang hàm đại tá, ngồi đến ghế Tham mưu cấp cao cho Bộ Tổng Tham mưu QLVNCH, nhưng nhạc của ông không mang màu sắc chính trị. Nó là những rung động rất thẩm mỹ và rất con người. Thế nên mới có chuyện khi “Hải Ngoại Thương Ca” được đưa ra Hà Nội duyệt, lãnh đạo của Cục Văn Hóa Nghệ Thuật mới hỏi: “Có phải bài Hải Ngoại Thương Ca này mới viết không mà sao nó sát với đề tài của thời cuộc này quá vậy? Nó hay đấy”.
Bài này được viết năm 1963. Cuộc binh biến năm 1960 của Nguyễn Chánh Thi thất bại, toàn thể sĩ quan tham gia phải bay ra nước ngoài trốn. Năm 1963, cuộc đảo chính thứ nhì lật đổ Ngô Đình Diệm thành công, các sĩ quan trốn ra nước ngoài kia mới được quay về. Thấy một số bạn bè do dự, Nguyễn Văn Đông viết “Hải ngoại thương ca” với những lời sau:
“Người về đây giữa non sông này
Hội trùng dương hát câu sum vầy
Về cho thấy con thuyền nước Nam
Đi vào mùa Xuân mới sang
Xa rồi ngày ấy ly tan
Tôi đi giữa trời bồi hồi
Cờ bay phất phới, tôi quên chuyện ngày xưa
Mong sao nước Việt đời đời
Anh dũng oai hùng chen chân thế giới!”
Còn “Chiều mưa biên giới” là biên giới nào? Chính là Biên giới Campuchia, trong chiến dịch truy quét Ba Cụt (bạn tự search về nhân vật này nhé). Nguyễn Văn Đông kể: “Lần đó tôi dẫn đầu một nhóm biệt kích bí mật đi điều nghiên chiến trường dọc theo biên giới Miên-Việt và Đồng Tháp Mười. Trên đường về, anh em chúng tôi lâm vào cảnh trời chiều gió lộng, mưa gào như vuốt mặt.
Giữa cánh đồng hoang vắng tiêu sơ, lối vào tiền đồn thì xa xôi, thoáng ẩn hiện những nóc tháp canh mờ nhạt ở cuối chân trời. Và từng chập gió buốt kéo về như muối xát vào thịt da. Từ trong cảnh ấy, tận đáy lòng mình đã nghe nẩy lên những cung bậc rung cảm, những trường canh đầu tiên buồn bã cho bài Chiều Mưa Biên Giới anh đi về đâu…”
Một không gian rất không lãn mạn, nhưng lại khiến con người nghệ sĩ trong ông phát tiết ra những lời ca lãng mạn:
“Tình anh theo đám mây trôi chiều hoang
Trăng còn khuyết mấy hoa không tàn
Cờ về chiều tung bay phất phới
Gợi lòng này thương thương nhớ nhớ
Bầu trời xanh lơ”
Bên cạnh “Chiều mưa biên giới” còn có “Mấy dặm sơn khê” và “Phiên gác đêm xuân”, tạo thành một triologi nhạc lính của Nguyễn Văn Đông. Chỉ ba bài, quá ít so với hàng trăm bài của Trần Thiện Thanh, hay mấy chục bài của Trịnh Lâm Ngân. Nhưng đấy là ba bài nhạc lính khác lạ, lãng mạn đến tận cùng.
Và Nguyễn Văn Đông không viết cho lính bên này hay lính bên kia, ông viết cho những con người phải sa vào hoàn cảnh trớ trêu như ông: thích hoa hồng mà phải ôm tay súng. Nhưng bom đạn không giết nổi con người chiến sĩ. Nên Chính Hữu dù chờ giặc tới trong đêm vẫn còn kịp nhìn thấy “Đầu súng trăng treo”, còn Nguyễn Văn Đông thì vẫn kịp thấy “trăng còn khuyết mấy hoa không tàn” và “nhìn ngắm mấy nóc chòi canh mà mơ mái nhà tranh”.
Ngày ông đi, thấy báo chính thống cũng từ biệt ông, có lẽ vì họ cũng thấy được điều mà ông đã viết ngót nửa thế kỷ trước: “Tình lính chiến khác chi bao người”.
Nguồn hình: Trang Facebook Quán Nhạc Vàng
Nguồn bài: Trang Facebook Binh Bong Bot