Tags
Trái tim người viễn xứ
24 Tuesday Apr 2018
Posted Trái Tim người viễn xứ, Uncategorized
in24 Tuesday Apr 2018
Posted Trái Tim người viễn xứ, Uncategorized
inTags
21 Saturday Apr 2018
Tags
Trên đường du học (Minh Kỳ)- Đĩa Sóng Nhạc 917/2152 năm 1966
Xin đừng hỏi chuyện ngày xưa (Song Ngọc)- Đĩa Tân Thanh ĐL0659-5
Cô nữ sinh Đồng Khánh (Thu Hồ)- Đĩa Continental số 12
Mộng chiều xuân (Ngọc Bích)- Đĩa Continental số 12
19 Thursday Apr 2018
Nhạc sĩ Anh Việt sinh năm 1928 tại Kiên Giang. Ông bắt đầu sáng tác nhạc từ thập niên 1940 và đây cũng là giai đoạn ông tham gia lực lượng Việt Minh chống Pháp. Năm 1951, ông bắt đầu sự nghiệp trong Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa và lên đến cấp bậc đại tá. Ông tốt nghiệp cử nhân và cao học Chính trị kinh doanh từ Viện Đại học Đà Lạt, đi tu nghiệp ngành quân cụ tại Pháp năm 1952 và 1953. Về âm nhạc, ông từng là Trưởng ban nhạc Cung Thương, Hương Thời Gian, Hương Xưa, Quê Hương, Tổ Quốc trên Đài Phát Thanh Quân đội, Đài Phát Thanh Quốc gia và Đài Vô tuyến Truyền hình Việt Nam. Anh Việt được ái mộ nhất qua các ca khúc như Bến Cũ, Thơ Ngây, Lỡ chuyến đò ….
Sau 1975, ông định cư tại Mỹ và sáng tác một số ca khúc như Xuân Viễn Xứ, Một Thời Dễ Thương, Giọt Buồn v.v… và xuất bản một tập nhạc Phật giáo mang tên Những Giọt Không. Ông cũng phổ nhạc vào nhiều bài thơ của Thiền sư Nhất Hạnh và phát hành những ca khúc này trong hai albums Hoa Mặt Trời và Trường ca Avril. Ông mất năm 2008 tại San José, California. Nhà văn Nguyễn Đình Toàn nhận định: “Từ sau biến cố 75, sống ở hải ngoại, người ta cũng không thấy ông tuyên bố điều này điều khác, ở chỗ nọ chỗ kia.Chắc ông chọn sự im lặng.Những người yêu nhạc ông hoàn toàn kính trọng sư im lặng của ông, và xin gửi tới ông một bông hồng tạ ơn về nhưng gì ông đã cống hiến cho âm nhạc Việt Nam.”
Sau đây là ba ca khúc nổi tiếng nhất của nhạc sĩ Anh Việt:
Ca sĩ Hà Thanh (bên trái) trong thập niên 1950
Thơ Ngây- Hà Thanh
Lỡ chuyến đò- Hà Thanh
Bến cũ- Ái Vân
16 Monday Apr 2018
Nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ sinh năm 1930 tại Bình Định. Từ thời niên thiếu ông đã thành thạo hai nhạc cụ guitar và sáo. Sau một thời gian theo học tại trường Quốc Gia Âm Nhạc Sài Gòn, ông trở thành giáo viên âm nhạc và Việt văn tại các trường trung học Bồ Đề, Nguyễn Công Trứ, Tân Thanh…. ở Đà Nẵng. Trong thời gian 1965 đến 1966 ông bị cầm tù vì những hoạt động đối lập chính quyền hai ông Thiệu và Kỳ. Phạm Thế Mỹ nổi tiếng với những ca khúc như Tóc mây, Dáng Hồng, Áo Lụa Vàng, Đan áo mùa Xuân, Bông hồng cài áo, Hoa vẫn nở trên đường quê hương, Bóng mát.
Nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ
Từ năm 1970 đến 1975, ông là trưởng phòng Văn-Mỹ-Nghệ của Viện Đại học Vạn Hạnh. Trong thời gian công tác tại Viện Đại học Vạn Hạnh, ông xem Nguyễn Thị Diệu Lý (sinh viên của trường) hát bài “Bông hồng cài áo” trong lần đầu tiên được chọn vào Đội văn nghệ Vạn Hạnh. Việc Diệu Lý chọn bài hát “Bông hồng cài áo” cũng tình cờ vì cô thích bài hát này cũng như đáp ứng tính công chúng thời đó. Đến khi cô trở thành giọng ca chính của Vạn Hạnh thì Diệu Lý mới biết tác giả của “Bông hồng cài áo” là người thầy lâu nay chỉ huy dàn hợp xướng Vạn Hạnh. Dù ông lớn hơn cô hơn 20 tuổi nhưng cả hai cùng chung quan điểm sống và nảy sinh tình cảm. Họ chính thức kết hôn năm 1975. Hầu hết các tập nhạc của ông đã được xuất bản đều có chung tên người trình bày (kẽ nhạc) là Diệu Lý.
Ông mất năm 2009 tại thành phố Hồ Chí Minh.
Dáng hồng
Áo lụa vàng
Bông hồng cài áo (dựa trên đoản văn cùng tên của Thiền sư Nhất Hạnh)
Bóng mát
11 Wednesday Apr 2018
…. Tôi sinh ra và lớn lên trong vùng đất châu Ô, châu Rí ngày xưa khi cuộc chiến Việt Nam đang diễn ra đầy khốc liệt trên khắp mọi miền quê hương. Nhưng Huế vẫn được ví như… nàng công chúa ngủ trong rừng. Trong tiếng bom đạn não lỏng xa xa, gần gần đêm ngày dội về Huế. Nếp sống đơn giản của giới bình dân và nếp sống quý phái kiểu Huế của những gia đình tương đối khá giả từ thời tiền chiến vẫn còn đậm nét trong chiến tranh.
Tôi từ làng quê lên Huế học từ thời đệ thất Hàm Nghi năm 1959. Tôi học lịch sử công chúa Huyền Trân và thường đi trên con đường Huyền Trân Công Chúa.
Có thể nói mà không lo bị hài tội là cường điệu, đại ngôn khi cho rằng, con đường Huyền Trân Công Chúa Huế nổi tiếng vào thời tuổi trẻ của tôi không chỉ vì danh vị của bậc anh thư bảy trăm năm trước mà vì những giai nhân tài sắc của một gia đình thời hiện đại: Gia đình bác Trần Kiêm Phổ và những người con gái đã làm xao xuyến bao chàng trai gạo cội Huế cũng như vãng lai; kể cả học trò trong Quảng ra thi.
Với giới nam nhi đủ mặt của Huế một thời thì con đường Huyền Trân Công Chúa bắt đầu từ cầu Ga. Từ nơi đó nhìn phía bên trái có một cái “ki ốt” nhỏ, lai lịch dựng lên không biết thời nào, nhưng trong mắt những chàng trai Huế thì nó có từ khi trở thành nhà sách Uyên Bác. Nhà văn Dương Mãn viết:”Nơi đó là ki-ốt bán sách báo của chị em ca sĩ Hà Thanh. Đây cũng là nơi quy tụ nhiều cây si tới mua sách báo thì ít mà ngẩn ngơ nhìn ngắm… thì nhiều.”
Bác Trợ Phổ là trưởng tộc dòng họ Trần trong thế hệ học trò chúng tôi. Đối với các chị, tôi ở vai vế đàn em vừa về mặt tuổi tác, vừa về mặt quan hệ huyết thống nên chỉ biết các bà chị của mình rất nổi tiếng. Chị Tố Cần, nổi tiếng là người đẹp Đồng Khánh vang bóng một thời, nhưng không tránh khỏi chuyện tình duyên lận đận. Chị Hà Thanh là một danh ca với tiếng hát trong ngần như nước sông Hương. Nhưng tình duyên cũng nửa đường gãy gánh. Chị Phương Thảo đẹp đoan trang như bức tranh nghệ thuật. Nhưng chuyện tình của chị cũng đẹp mà buồn như tình sử Love Story!
Với những khuôn mặt nổi tiếng như các chị và các lang quân của mấy chị thì chuyện tình nghĩa riêng tư không còn ở riêng sau khung cửa sổ mà đã trở thành những mẫu chuyện tình đẹp và buồn của Huế. Tôi còn nhớ bác Ấm Mai đã có lần bình luận: “Chuyện của mấy o cũng như là chuyện tình của Huyền Trân – Trần Khắc Chung thuở trước. Có những người đàn bà hy sinh việc lớn cho cuộc tình. Nhưng cũng có những người đàn bà hy sinh cuộc tình cho việc lớn. Thiệt không dễ gì tìm ra một chuẩn mực để phê phán công bằng cho những hệ lụy của tình yêu và lịch sử.”
Con đường Huyền Trân Công Chúa ở Huế là một trong những con đường đẹp nhất nơi đây. Đẹp bởi cái tên gọi diễm kiều và ẩn chứa trong mình cùng lúc vai trò lịch sử đầy bi
hùng của dân tộc và nét đẹp non nước thần kinh.
Tôi một thời là chàng trai Quốc Học lớn lên với niềm mơ mộng hoa niên về con đường áo trắng Đồng Khánh. Nhưng rồi cũng xa Huế, xa con đường Huyền Trân Công Chúa chạy dọc theo dòng sông An Cựu nắng đục mưa trong lên tới Nguyệt Biều Lương Quán. Tôi bỏ Huế mà đi; nhưng mỗi lần về thăm Huế, tôi không thể là gã lưu dân hay người du khách. Tôi thương Huế như thương bóng dáng mẹ mình: Bóng dẫu khuất nhưng niềm tâm cảm vẫn luân lưu ấm nồng trong mạch sống.
(….)
Hôm nay, trên đường về lại Huế trong những ngày đầu xuân Mậu Tuất 2018 mà những chậu mai vàng chưa rụng hết, tôi viết những dòng này trên chuyến bay đêm từ San Francisco về Tân Sơn Nhất. Rồi chỉnh sửa tại Sài Gòn và Huế.
Huế, 01-4-2018
Trần Kiêm Đoàn
(Trích Tạp chí Sông Hương số đặc biệt tưởng niệm Huyền Trân Công Chúa. Tháng 4-2018.)
07 Saturday Apr 2018
Posted Ai về sông Tương, Uncategorized
inTags
Ban hop ca Thang Lang, Ca si Ha Thanh, Nhac si Nguyen Thong, Nhac si Thong Dat, Nhac si Van Giang
Ca sĩ Hà Thanh- Thập niên 60
Nhạc sĩ Văn Giảng sinh năm 1929 tại Huế, tốt nghiệp đại học ở Sài Gòn và tu nghiệp về âm nhạc tại Hawaii, Mỹ. Ông được đề cử làm giám độc Trường Quốc gia Âm nhạc Huế. Năm 1969 ông chính thức lập nghiệp tại Sài Gòn, phụ trách phần hòa âm cho các hãng đĩa Sóng Nhạc , Asia và giảng dạy tại trường Quốc Gia Âm Nhạc Sài Gòn.
Ông sáng tác dưới nhiều bút hiệu khác như Thông Đạt và Nguyên Thông. Những sáng tác của ông được nhiều người biết đến là Ai về sông Tương, Thúc Quân, Từ Đàm quê hương tôi….
Cũng trong lãnh vực âm nhạc, nhờ xuất thân từ một gia đình có truyền thống âm nhạc, Văn Giảng thích tìm tòi và nghiên cứu nhạc cổ truyền Việt Nam. Năm 1956, ông đã tìm ra phương pháp ký âm cho nhạc sĩ cổ truyền có thể nhìn bài bản mà trình tấu chung với nhạc sĩ tân nhạc và từ đó, ông thành lập ban cổ kim hòa điệu Việt Thanh, ban nhạc đầu tiên trong nước dưới hình thức tân cổ hòa điệu với những nhạc khí tranh, tỳ, nhị huyền, nhị hồ, đàn nguyệt… hoà tấu chung với dương cầm, tây ban cầm, đại hồ cầm…
Trong lĩnh vực này, ông đã hoàn thành tác phẩm độc đáo Ai đưa con sáo sang sông, một bản đại hòa tấu, thời lượng 60 phút, trình diễn bởi các nhạc sĩ cổ truyền. Năm 1970, ông được huy chương vàng Giải Văn học Nghệ thuật Quốc gia của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa với tác phẩm Ngũ tấu khúc (Quintet for Flute and Strings). Cùng năm này, ông được chỉ định làm Giám đốc Nghệ thuật điều hành Đoàn Văn nghệ Việt Nam gồm 100 nghệ sĩ tân cổ nhạc và vũ, ban vũ do nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ phụ trách, ban vũ cổ truyền Đại nội Huế do nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba điều khiển, để tham dự Hội chợ Quốc tế Expo 70 tại Osaka, Nhật Bản.
Sau 1975, ông vượt biên và định cư ở Úc. Văn Giảng mất ngày 9/5/2013 ở thành phố Footscray, tiểu bang Victoria, nước Úc. Sau khi rải cốt tro ông trên biển vào ngày 17/5, vợ ông lên cơn đau tim và mất sau khi đưa vào bệnh viện chiều hôm đó.
Sau đây là hai bài hát do ông sáng tác dưới bút hiệu Thông Đạt
Ai về sông Tương- Hà Thanh
Đôi mắt huyền- Hà Thanh
Thúc Quân dưới bút hiệu Văn Giảng- Ban hợp ca Thăng Long