Trích từ bài viết của Trịnh Thanh Thủy
trên tranquanghai.info
Sau khi nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông nằm xuống, trên mạng mọi người bắt
đầu truyền nhau nghe nhạc ông sáng tác. Càng nghe lại càng yêu mến
ông hơn vì tôi và biết bao nhiêu người Việt ở miền Nam trước 75 đã
sống và chia sẻ cùng ông những tư duy, tâm sự, hay cảnh ngộ ngang trái
của con người trong một đất nước có chiến tranh trên cả hai miền Nam
và Bắc. Nhất là trong cái cảnh mưa phùn, gió rít của một mùa xuân Cali
2018, xứ người, trời gây gây lạnh, cái buồn nhè nhẹ bỗng lãng đãng
trong tôi. Giọng ca mê hoặc lòng người của Hà Thanh mà người ta gọi
là sang cả, quấn quít, ám ảnh óc tôi khôn nguôi. Hình như nỗi thương,
niềm nhớ một mùa xuân nó bàng bạc trong nhạc của Nguyễn Văn Đông
và vận vào ông đến nỗi ông đã ra đi vào một ngày xuân và đã không bao
giờ trở lại.
Trong buổi gặp gỡ tháng 12 năm 2011, tôi có nói chuyện với ông về các
tác phẩm đã làm sáng danh ông vào thập niên 60 như Chiều mưa biên
giới, Mấy dặm Sơn Khê, và Về mái nhà xưa.v..v… Ông đem ra một cái
máy hát cầm tay cũ, một tập nhạc và một chồng CD trong đó có những
đĩa nhạc của ông. Ông bảo: “Đây là những CD có nhạc của chú do các ca
sĩ hát nhạc chú, tặng chú. Chú cho cháu thâu lại hay lấy bất cứ bản copy
nhạc nào của chú nhưng không được bán hay làm thương mại”. Tôi chọn
ra những bài hát tôi ưa thích và ông đã ký đề tặng tôi. Nhìn những dòng
chữ như rồng bay phượng múa “Quý mến tặng cháu Trịnh Thanh Thủy”,
tôi giật mình tự hỏi khi nào chữ viết tay đẹp như vậy tuyệt chủng, bởi
lâu lắm rồi tôi không nhìn thấy những dòng chữ viết tay đẹp như vậy, vì
thời đại này, tôi và nhiều người quen nhìn những dòng chữ đánh máy
của máy tính, của Iphone hằng ngày.
Tôi thấy trong các CD nhạc có rất nhiều bài do Hà Thanh hát, nhân đấy
tôi hỏi “Cháu có biết và hay nói chuyện với cô Hà Thanh, cô Hà Thanh
hát nhạc chú rất hay”. Nghe tôi nói vậy, mắt ông bỗng xa xăm. Ông cầm
cuốn CD của Hà Thanh lên một cách trân quí,”Hà Thanh hát nhạc của chú đạt nhất”. Rồi ông mở cái máy hát cũ, giọng trong và cao của con
hoạ mi xứ Huế vút lên, người nhạc sĩ chìm vào dĩ vãng và thế giới của
riêng mình. Tôi bắt đầu bàn luận với ông về âm vực của Hà Thanh, tôi
thích cái lối cô luyến láy. Ông bảo Hà Thanh hát dễ dàng những bài có
âm vực rộng của ông viết. Từ ngày cô qua Mỹ, ông không còn gặp cô
nhưng ông vẫn theo dõi theo tiếng hát của cô đều đặn. Tôi bảo tôi thích
nhất là bài Mấy dặm sơn khê của ông nó vừa buồn vừa lãng mạn, nhất
là do Thái Thanh hát. Ông đồng ý nói, Thái Thanh có âm vực rất tốt, hát
được những bài có nốt cao như “Mấy dặm sơn khê” của ông thật tuyệt
vời. Tôi hỏi thêm, hình như những bản nhạc của chú đều viết cho những
người có âm vực rộng. Ông cười nói, “Do đó có những bản chú phải viết
lại cho các ca sĩ khác dễ hát hơn”. Tôi tò mò: “Trong quá trình sáng tác,
chú có viết nhạc cho riêng một ca sĩ nào, hình bóng nào rõ rệt không?”.
Ông bảo “Khi có, khi không, tùy lúc và tùy hứng, cháu ơi”.
Tôi bắt đầu nhắc đến thời vàng son của ông với những bản nhạc nổi
tiếng như “Chiều mưa biên giới, Hải ngoại thương ca, Tình khúc hàng
hàng lớp lớp ..v..v…” Tôi bảo chú là người đầu tiên trong âm nhạc trước
1975, dùng chữ “Hải ngoại” đó. Tôi tiếp tục nhận xét “Cháu yêu thích
những câu kết trong nhạc của chú, câu nào cũng mang ấn tượng sâu đậm
cho nguời hát và người nghe khiến họ nhớ mãi. Như câu “Em ái yêu
trong chiều đông gió, mang áo xanh theo chồng sang sông, quên mái
tranh quên, con đò xưa”. Tôi cười cười, dí dỏm hỏi, “vừa âu yếm, vừa
nao lòng, có phải bài này chú viết cho người yêu đầu đời không?”. Chú
cũng cười bảo tôi, muốn hiểu sao cũng được, nhưng bài này có hình ảnh
quê cũ là Tây Ninh, ngày chú trở lại, nên trong đầu bài nhạc có ghi
“Dâng mảnh đất quê nghèo -Tây Ninh-. Về sau 10 năm xa cách, ngày về
vẫn với tâm hồn bơ vơ, cô độc, và tấm lòng dễ tin, dễ yêu như ở buổi ra
đi. N.V. Đ. 1964.”
Ông nói thêm rằng, sau này ông nghe có những ca sĩ hát bài này, lời bị
sai mà họ cứ hát khiến ý nghĩa lời hát bị méo mó. Đó là câu “Tôi lắng
nghe tâm tình nhân thế, qua đáy tim chưa đục sông Mê…”. Họ hát thành“qua đáy tim chưa đục “song mê” hay “song khuya”. Ông bảo trong bản
nhạc phát hành hồi đó ông đã cẩn thận ghi chú “Sông Mê, nghĩa bóng,
tức lòng không bợn nhơ”. Rồi ông ngồi tỉ mỉ giải thích cho tôi nghe
nghĩa của Sông Mê. Khi người ta chết phải đi qua cầu Nại Hà, dưới đó là
Sông Mê, rồi uống chén cháo lú để quên kiếp trước, không còn thương
tiếc nuối về cảnh cũ mà lộn kiếp trở lại. Nghe ông giải thích tôi mới vỡ
lẽ ra ý nghĩa sâu sắc của câu “Tôi lắng nghe tâm tình nhân thế qua đáy
tim chưa đục sông Mê”, có nghĩa lòng người trở về còn y như lúc đi, yêu
mảnh đất quê, yêu mái tranh và chưa quên hình bóng người xưa. Nhất là
còn yêu lắm lắm, thế mà nhân tình thế thái đổi thay “và em ái yêu đã
mang áo xanh theo chồng sang sông mất rồi”.
Tôi tấn công thêm “Lòng trần còn tơ vương khanh tướng, thì đường trần
mưa bay gió cuốn, còn nhiều anh ơi”, theo cháu, câu cuối lại là câu sâu
sắc nhất trong bài nhạc “Chiều mưa Biên giới” chú ơi”. Mặt ông bỗng sa
sầm, giọng đầy cảm xúc “Chính câu này đã là câu hát gây rắc rối cho đời
chú.”. Ông hồi tưởng lại những giây phút gặp khó khăn phải đương đầu
với chính quyền VNCH. Những câu hát trong bài “Chiều mưa biên giới”
đã làm ông khó xử. Ông tiếp “Những gì chú viết đều là cảm xúc thật,
những câu hát trong bài Chiều mưa biên giới là những câu hát nói lên
nỗi lòng thương nhớ của người đi chiến đấu, dành lại non sông, mà
chính chúng lại khiến chú khó xử với chính quyền đương thời ngày đó.”
Ông không kể tôi nghe chi tiết, nhưng sau này tôi đọc các bài viết thì
biết ông bị phạt trọng cấm 15 ngày và tác phẩm này cùng “Mấy dặm sơn
khê” bị cấm lưu hành một thời gian với lý do nội dung làm suy yếu tinh
thần binh sĩ. Bản nhạc có lời đề tặng rất cảm động “Kính tặng các chiến
sĩ một nắng hai sương, lao mình nơi tiền tuyến. Kỷ niệm Đồng Tháp
Mười(biên giới Việt-Cambod- 1956)”.